Bơm rửa ống tuỷ là một bước hết sức quan trọng quyết định sự thành công của điều trị tủy. Hãy luôn ghi nhớ một điều: dù máy móc công nghệ có tiên tiến tới đâu, dù bạn có dùng trâm tay hay trâm máy, điều quan trọng nhất phải làm được đó là làm sạch ống tủy.
Chuẩn đoán, sửa soạn, tạo hình, trám bít ống tủy và phục hình là các bước chính trong điều trị răng bị bệnh về tủy và quanh chóp. Loại bỏ hoặc giảm thiểu đáng kể chất kích thích và ngăn chặn tái nhiễm ống tủy sau khi điều trị là những yếu tố quan trọng cho kết quả thành công.
Chất kích thích mô tủy và mô quanh chóp gồm những gì? Nguyên nhân chính của các bệnh lý tủy và quanh chóp đó là các chất kích thích sống và không sống. nhóm không sống bao gồm các chất kích thích cơ học, nhiệt và hóa học. nhóm sống bao gồm nhiều loại vi sinh vật như vi khuẩn, nấm và virus. Khi những thay đổi bệnh lý xảy ra ở mô tủy, không gian ống tủy có được khả năng trú ngụ chất kích thích phong phú bao gồm vài chủng vi khuẩn, cùng với chất độc và sản phẩm phụ của chúng. Nghiên cứu trên động vật và bệnh nhân cho thấy bệnh lý tủy và hoặc bệnh lý quanh chóp không phát triển nếu không có sự hiện diện của vi khuẩn.
Điều gì gây trở ngại trong việc loại bỏ các chất kích thích khỏi hệ thống ống tủy? Sự phức tạp của hệ thống ống tủy, hệ thống ống ngà dày đặc, các loại vi khuẩn xâm lấn ống ngà, sự hình thành lớp mùn ngà trong quá trình sửa soạn và mô tuỷ là những trở ngại chính trong việc đạt được mục tiêu hoàn thành bơm rửa và tạo hình hệ thống ống tủy. Kiểm tra bằng kính hiển vi cho thấy hệ thống ống tủy là hệ thống bất thường và phức tạp với nhiều ngõ cụt, đường rãnh và ống tủy bên.
Các dung dịch bơm rửa ống tủy và thuốc đặt ống tủy được sự dụng trong suốt quá trình điều trị tủy để tiếp cận được phức hợp tự nhiên và loại bỏ lớp mùn ngà. Các dung dịch bơm rửa nội nha gây ra hiệu quả cơ học và hóa học. hiệu quá cơ học của các dung dịch bơm rửa được tạo ra bằng dòng chảy tới – lui của dung dịch bơm rửa trong quá trình bơm rửa và tạo hình ống tủy nhiễm khuẩn, làm giảm đáng kể số lượng vi khuẩn. Nghiên cứu cho thấy dung dịch bơm rửa có đặc tính kháng khuẩn có hiệu quả nhiều hơn rõ ràng trong việc làm giảm và loại bỏ vi khuẩn khi so sánh với dung dịch nước muối.
Thế nào là đặc tính lý tưởng của một dung dịch bơm rửa? Để làm sạch và khử khuẩn hiệu quả hệ thống ống tủy, một dung dịch bơm rửa phải có khả năng khử khuẩn và thâm nhập được vào ngà răng và ống ngà, đem lại hiệu quả kháng khuẩn lâu dài, loại bỏ mùn ngà và không có tác dụng kháng nguyên, không độc và không gây ung thư. Thêm vào đó, nó phải không gây tác dụng có hại trên ngà răng hoặc lên khả năng kín khít của vật liệu trám. Hơn nữa, nó phải tương đối tiết kiệm, tiện dùng và không gây đổi màu răng. Một số đặc tính đáng chú ý khác của một dung dịch bơm rửa lý tưởng bao gồm khả năng hòa tan mô tủy và khử hoạt tính nội độc tố.
Các dạng, ưu điểm và nhược điểm của các dung dịch bơm rửa ống tuỷ? Các dung dịch bơm rửa hiện đang được sử dụng trong quá trình bơm rửa và tạo hình có thể chia thành hoạt chất kháng khuẩn và khử canxi hoặc kết hợp cả hai. Chúng bao gồm: Natri hypochlorite, chlorhexidine, acid ethylenediaminetetraacetic(EDTA), hỗn hợp của tetracycline, một loại acid và chất tẩy( MTAD)
Mục Lục Bài Viết
1. Natri hypochlorite (NaOCl). Dung dịch bơm rửa ống tuỷ phổ biến nhất
Natri hypochlorite là dung dịch bơm rửa ống tủy được sử dụng phổ biến nhất. Nó là loại chất sát trùng, bôi trơn được pha loãng với nồng độ từ 0,5% tới 5,25%. Clo tự do trong NaOCl hòa tan mô sống và mô hoạt từ bằng cách phá vỡ protein thành các amino axit. Giảm nồng độ dung dịch làm giảm độc tính, giảm tác dụng kháng khuẩn và khả năng hòa tan mô. Tăng thể tích hoặc làm ấm dung dịch làm tăng hiệu quả bơm rửa.

Ưu điểm của NaOCl bao gồm khả năng hòa tan chất hữu cơ có mặt trong hệ thống ống tủy và chi phí rẻ. Nhược điểm chính của dung dich bơm rửa này đó là độc tính của nó khi đi vào mô quanh cuống, mùi vị khó chịu, khả năng tẩy quần áo và khả năng ăn mòn kim loại. Hơn nữa, nó không thể diệt tất cả các loại vi khuẩn cũng như loại bỏ tất cả lớp mùn ngà. Nó cũng ảnh hưởng tới đặc tính của ngà răng.

Kết quả của nghiên cứu in vitro gần đây cho thấy nồng độ bơm rửa hiệu quả nhất là 5,25% trong 40 phút, trong khi đó dung dịch bơm rửa với nồng độ 1,3% và 2,5% cùng khoảng thời gian không có hiệu quả trong việc loại trừ E.faecalis trong trụ ngà bị nhiễm khuẩn. Dựa trên kết quả của nghiên cứu này, các tác giả đưa ra khuyến cáo sử dụng thêm các dung dịch bơm rửa khác để tăng hiệu quả kháng khuẩn trong suốt quá trình làm sạch và tạo hình ống tủy.
Natri hypochlorite thường được dùng ở dạng hoạt động trên lâm sàng. Để đạt được trọn vẹn hoạt tính kháng khuẩn, nó phải ở trạng thái mới nhất trước khi sử dụng. Tuy nhiên trong phần lớn các trường hợp, nó thường được bán trong chai lớn và bảo quản ở nhiệt độ phòng khi có cơ hội tiếp xúc với oxy trong thời gian dài. Dung dịch tiếp xúc thời gian dài với oxy, nhiệt độ phòng và ánh sáng có thể làm giảm hoạt tính đặc trưng của nó.
Sự rò rỉ NaOCl ra mô quanh chóp có thể gây nên tổn thương nghiêm trọng cho bệnh nhân. Để giảm thiểu tai nạn do NaOCl, kim bơm rửa phải đặt ngắn hơn chiều dài làm việc, hơi lỏng trong ống tủy và dung dịch phải được bơm vào nhẹ nhàng. Liên tục đưa đầu kim lên và xuống trong suốt quá trình bơm rửa ngăn chặn việc mắc kim trong ống tủy và giúp bơm rửa tốt hơn. Sử dụng đầu kim bơm rửa với lỗ mở bên thân kim giảm khả năng đẩy dung dịch vào mô vùng cuống.

Điều trị những ca tai nạn với NaOCl bằng cách giảm đau và theo dõi thường xuyên bệnh nhân cũng như kê thuốc kháng sinh và giảm đau.
2. Chlohexidine
Chlohexidine gluconate được sử dụng trong vòng 50 năm qua để phòng ngừa sâu răng, trong điều trị nha chu và là một loại nước súc miệng sát khuẩn.Nó có tác dụng kháng khuẩn phổ rộng, kéo dài và ít độc tính. Nhờ các đặc tính này, nó cũng được khuyến cáo sử dụng như một dung dịch bơm rửa tiềm năng.

Ưu điểm chính của chlohexidine so với NaOCl đó là độc tính thấp hơn và không có mùi hay vị khó chịu. Tuy nhiên, không giống như NaOCl, nó không thể hòa tan vật chất hữu cơ và mô hoại tử có mặt trong hệ thống ống tủy. Thêm vào đó, giống như NaOCl, nó không có khả năng tiêu diệt tất cả vi khuẩn và không loại bỏ được mùn ngà.
3. Ethylenediamineetetraacetic acid (EDTA)
Tác nhân chelat như EDTA, axit citric và tetracycline được dùng để loại bỏ mùn ngà. NaOCl là một loại dung dịch phụ gia để loại bỏ các thành phần hữu cơ còn lại. Bơm rửa ống tuỷ với EDTA 17% trong vòng 1 phút sau đó rửa lại với NaOCl là phương pháp được khuyến cáo phổ biến nhất để loại bỏ mùn ngà. Tiếp xúc lâu hơn với EDTA gây nên loại bỏ quá mức cả ngà quanh ống và trong ống. EDTA có rất ít hoặc không có hiệu quả kháng khuẩn.

4. MTAD
Một lựa chọn khác thay cho EDTA trong việc loại bỏ mùn ngà đó là dung dịch BioPure MTAD (DENTSPLY Tulsa Dental Specialties, Tulsa, Okla.), là hỗn hợp của đồng phân tetracycline, một loại axit (axit citric) và một chất tẩy rửa. MTAD được sử dụng để bơm rửa sau cùng giúp sát khuẩn hệ thống ống tủy và loại bỏ mùn ngà. Hiệu quả của MTAD trong việc loại bỏ hoàn toàn mùn ngà được tăng cường khi sử dụng NaOCl ở nồng độ thấp (1,3%) trong ống tủy trước khi bơm rửa 1ml MTAD trong ống tủy trong vòng 5 phút và súc sạch với 4ml MTAD sau cùng. Nó hơn CHX trong hoạt tính kháng khuẩn. Hơn nữa, nó có tác dụng kháng khuẩn kéo dài, tương hợp sinh học và tăng cường khả năng dán dính

5. Công cụ và kĩ thuật bơm rửa
Trong nhiều năm, các phương pháp đa dạng được đề xuất và phát triển để bơm rửa ống tủy hiệu quả hơn trong việc loại bỏ mảnh vụn và vi khuẩn từ hệ thống ống tủy. Các kĩ thuật này có thể phân loại thành hai nhóm lớn: chuyển động thông thường và chuyển động xoay.
Kĩ thuật chuyển động thông thường bao gồm bơm rửa với kim, bàn chải nội nha, và chuyển động động lực học với file hoặc con gutta-percha.

Kĩ thuật chuyển động xoay bao gồm bàn chải nội nha xoay, bơm rửa liên tục trong quá trình sửa soạn ống tuỷ, rung âm và siêu âm, tạo áp lực âm trong quá trình bơm rửa hệ thống ống tủy.
Do các dung dịch và kĩ thuật chuyển động thông thường bằng tay không thể loại bỏ hoàn toàn tất cả các chất kích thích, hòa tan tất cả mô hữu cơ hoặc mùn ngà, nên các phương pháp hiện đại với sự can thiệp của máy móc được sử dụng để thực hiện bơm rửa hiệu quả hơn tới chiều dài làm việc. Sử dụng những phương pháp này tạo hiệu quả làm sạch tốt hơn khi so sánh với bơm rửa bằng kim tiêm thông thường.
6. Dùng Lasers trong điều trị nội nha
Một số nhà nghiên cứu báo cáo rằng laser có thể sử dụng để làm bay hơi mô trong ống tủy chính, loại bỏ mùn ngà và mô bẩn ở phần chóp của ống tủy. Một vài nhà nghiên cứu cho biết hiệu quả của laser phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm cường độ lực, thời gian tiếp xúc, khả năng hấp thụ ánh sáng của mô, hình thái học của ống tủy và khoảng cách giữa đầu dụng cụ tới điểm tác dụng. Hiệu quả của laser trong việc làm sạch hoàn toàn các phần sót lại trong ống tủy cần được xem xét. Khó khăn chính vẫn là xâm nhập vào khoảng không ống tủy nhỏ với cây thăm dò laser tương đối lớn và chi phí cao.

Đặc biệt, phương pháp sử dụng hệ thống laser trong điều trị nội nha khắc phục được hai nhược điểm chính của phương pháp truyền thống đó là:
– Không thể làm sạch và loại bỏ chất cặn bã trên trong hệt thống ống tủy phức tạp
– Không thể vô trùng đầy đủ vách ngà của ống tủy.
Laser giải quyết dứt điểm được những nhược điểm trên:
– Sự kết hợp của laser với hypochlorite mang lại sự vô trùng hoàn toàn và giúp cho việc đóng các ống ngà phụ.
– Ngoài ra laser có thể được sử dụng để cắt và nung nóng gutta-percha.
Nguồn: Root Canal Irrigants and Disinfectants